Hỏi: Cháu tôi bị khởi tố do đã gây thương tích cho người khác. Cháu đã ăn năn về lỗi của mình và đã cùng gia đình khắc phục, bồi thường, chi trả các chi phí điều trị. Bên bị hại đã thông cảm và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho cháu. Xin hỏi pháp luật quy định về miễn trách nhiệm hình sự thế nào, và trường hợp của cháu có thể được xem xét không?
Võ Hoài Thu (Khánh Sơn)
Trả lời: Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự được Bộ luật Hình sự quy định tại Điều 29:
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Bộ luật Hình sự còn quy định người dưới 18 tuổi phạm tội trong một số trường hợp cụ thể có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Với quy định tại Khoản 3 của Điều 29 Bộ luật Hình sự như trên thì trường hợp của cháu có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.
Từ quy định về miễn trách nhiệm hình sự của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự đã giao quyền quyết định cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án. Cụ thể, khi có căn cứ quy định tại Điều 29 của Bộ luật Hình sự, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra; viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án; trường hợp đã có quyết định truy tố thì viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị tòa án đình chỉ vụ án. Đối với cơ quan tòa án, trường hợp bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự thì hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam.
Trích nguồn: Cổng thông tin điện tử Khánh Hòa