II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ ĐỊNH 136/2016/NĐ-CP BỔ SUNG, SỬA ĐỔI NGHỊ ĐỊNH 221/2013/NĐ-CP QUY ĐịNH CHẾ ĐỘ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC
- Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Nghị định số 136 quy định ba đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thay vì hai đối tượng như quy định tại Nghị định số 221/2013/NĐ-CP.
Ba đối tượng gồm:
- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, trong thời hạn 2 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn 1 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện;
- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy;
- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định.
2. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung về thủ tục lập hồ sơ và thành phần hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Điều 9, khoản 1 Điều 12, điểm b Khoản 1 Điều 13:
- Điều 9 Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được sửa đổi, bổ sung như sau:
- Đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định:
Bãi bỏ quy định tại điểm b, e, g, h.
Điểm đ được sửa đổi, bổ sung như sau: Bản sao giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định này hoặc bản sao Quyết định chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định này.
2. Đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định:
Sửa đổi quy định tại điểm a: Tài liệu quy định tại Điểm a, Điểm b, Điểm c Khoản 1 Điều này;
Sửa đổi, bổ sung điểm b: Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền quy định tại Khoản 1 Điều 10 Nghị định này về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
Bổ sung điểm c: Tài liệu xác định người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định.”
- Sửa đổi, bổ sung quy định về việc gửi hồ sơ kiểm tra tính pháp lý (khoản 1 Điều 12) như sau:
Hết thời hạn đọc hồ sơ quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 11 Nghị định này, cơ quan lập hồ sơ đánh bút lục, lưu trữ hồ sơ theo quy định của pháp luật về lưu trữ, chuyển hồ sơ kèm theo văn bản của cơ quan lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, như sau:
a) Đối với hồ sơ quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này được chuyển tới Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện nơi người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính cư trú để kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ;
b) Đối với hồ sơ quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định này thì chuyển hồ sơ tới Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện nơi cơ quan lập hồ sơ đóng trụ sở để kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về chuyển hồ sơ cho cơ quan lập hồ sơ để bổ sung (điểm b Khoản 1 Điều 13) như sau:
Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì có văn bản đề nghị cơ quan lập hồ sơ bổ sung, trong đó nêu rõ lý do và các tài liệu cần bổ sung vào hồ sơ. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan lập hồ sơ phải bổ sung các tài liệu theo yêu cầu. Sau thời hạn trên, nếu hồ sơ không được bổ sung, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội trả lại hồ sơ cho cơ quan lập hồ sơ đồng thời thông báo bằng văn bản cho Trưởng phòng Tư pháp và người bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
3. Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền xác định người nghiện ma túy
Nghị định cũng sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 10 về thẩm quyền xác định người nghiện ma túy. Cụ thể, người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện ma túy là bác sỹ, y sĩ, được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn về chẩn đoán, điều trị cắt cơn nghiện ma túy do các cơ quan, tổ chức được Bộ Y tế giao tổ chức tập huấn và cấp chứng chỉ, đang làm việc tại: Các cơ sở y tế quân y, y tế quân dân y; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của ngành công an; phòng y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc; phòng y tế của các cơ sở có chức năng tiếp nhận, quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, trong thời gian lập hồ sở để Tòa án nhân dân xem xét quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trạm y tế xã, phường, thị trấn; phòng khám đa khoa khu vực; bệnh viện cấp huyện trở lên và bệnh việc thuộc các bộ, ngành khác.
4. Sửa đổi, bổ sung chế độ ăn, mặc và sinh hoạt đối với học viên tại cơ sở cai nghiện bắt buộc
Theo đó, định mức tiền ăn hàng tháng của học viên là 0,8 mức lương cơ sở. Ngày lễ, Tết dương lịch học viên được ăn thêm không quá 3 lần tiêu chuẩn ngày thường; các ngày Tết nguyên đán học viên được ăn thêm không quá 5 lần tiêu chuẩn ngày thường; chế độ ăn đối với học viên bị ốm do giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc quyết định theo chỉ định của cán bộ y tế điều trị, nhưng không thấp hơn 3 lần tiêu chuẩn ngày thường.
Định mức tiền chăn, màn, chiếu, gối, quần áo, đồ dùng sinh hoạt cá nhân và băng vệ sinh đối với học viên nữ hàng năm của học viên là 0,9 mức lương cơ sở.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 30 tháng 10 năm 2016.
Kết thúc Hội nghị, đồng chí Hồ Quang Thành, Truongr phòng Tư pháp huyện Vạn Ninh giải đáp những khó khăn, vướng mắc trong việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thực hiện: HQT